Ung Thư Buồng Trứng: Thách thức trong sàng lọc hiệu quả

Tầm quan trọng của phát hiện sớm

Phát hiện ung thư buồng trứng ở giai đoạn sớm (Giai đoạn I hoặc II) có thể giúp 70–90% bệnh nhân được chữa khỏi hoàn toàn nhờ phẫu thuật giảm khối u kết hợp hóa trị. Trong khi đó, nếu bệnh được phát hiện ở giai đoạn muộn (Giai đoạn III hoặc IV), tỷ lệ thành công giảm xuống chỉ còn khoảng 20% hoặc thấp hơn.

Thách thức trong việc sàng lọc

Mặc dù việc phát hiện sớm đóng vai trò sống còn, chỉ khoảng 20–25% ca ung thư buồng trứng được chẩn đoán kịp thời. Đối với phụ nữ có nguy cơ cao, phẫu thuật phòng ngừa cắt bỏ vòi trứng hoặc buồng trứng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên, phương pháp này không phù hợp cho phần lớn phụ nữ có nguy cơ trung bình hoặc thấp, chiếm 75–85% số ca mắc bệnh.

Phân loại ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng được chia thành hai nhóm chính:

  • Loại I: Khối u phát triển chậm từ tổn thương trên buồng trứng (Vd: u giáp biên, lạc nội mạc tử cung….v..v), dễ phát hiện sớm, gồm các dạng như ung thư thanh dịch grade thấp, u dạng nội mạc grade thấp, ung thư dịch nhầy, u tế báo sáng and u Brenner ác tính.

  • Loại II: chiếm 75% số ca ung thư biểu mô. Phổ biến nhất là ung thư thanh dịch grade cao, chiếm 50–70% trường hợp ung thư buồng trứng xâm lấn. Do khối u loại II có tính chất xâm lấn mạnh, chúng thường được phát hiện ở giai đoạn muộn với chỉ 1% trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn I bằng các phương pháp tầm soát thông thường. Nghiên cứu cho thấy nhiều khối u loại II phát sinh từ biểu mô vòi trứng. Với cơ chế bệnh sinh xảy ra khi tế bào ở đoạn xa của vòi trứng dễ bị biến đổi ác tính do các yếu tố viêm liên quan đến quá trình rụng trứng và diện tích bề mặt lớn của tua vòi. Khi tiến triển, tế bào ung thư ở vòi trứng có thể di chuyển lên bề mặt buồng trứng hoặc phúc mạc, dẫn đến di căn rộng vì vậy khi phát hiện khối u thì bệnh nhân ở giai đoạn xa của bệnh.

Giới hạn của sàng lọc hiện tại

Các phương pháp truyền thống như siêu âm và xét nghiệm CA-125 gặp hạn chế lớn trong phát hiện ung thư thanh dịch độ cao (chiếm đa số trong trường hợp u đã di căn). Siêu âm chỉ phát hiện khối u lớn hơn 1 cm, trong khi tế bào ung thư có thể đã lan rộng trước khi khối u đủ lớn để nhận diện. CA-125 cũng chỉ phát hiện khối u khi kích thước đã đạt khoảng 25 mm.

Một hạn chế nữa ở tầm soát ung thư buồng trứng ở phụ nữ mãn kinh (đối tượng nguy cơ) là tỉ lệ nhìn thấy được 1 hoặc cả hai buồng trứng chỉ dao động từ 66-84%, điều này khá dễ hiểu vì ở những phụ nữ này có rất nhiều yếu tố cản trở việc quan sát thấy rõ được buồng trứng như: bệnh nhân béo phì, đã cắt tử cung hoặc 1 buồng trứng, kích thước buồng trứng giảm đáng kể ở tuổi mãn kinh.

Vì vậy trong ba thử nghiệm lớn tại Nhật Bản, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh cho thấy việc sàng lọc bằng siêu âm và CA-125 không giảm được tỷ lệ tử vong ở phụ nữ sau mãn kinh không có triệu chứng. Ngoài ra, xét nghiệm sàng lọc còn gây ra nhiều ca phẫu thuật không cần thiết do kết quả dương tính giả.

Hướng đi mới trong sàng lọc

Các nghiên cứu hiện đang tập trung vào các phương pháp hiện đại như phân tích DNA khối u trong máu và phương tiện hình ảnh tiên tiến đang được nghiên cứu nhằm cải thiện khả năng phát hiện sớm. Những bước tiến này hứa hẹn sẽ nâng cao tiên lượng và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân ung thư buồng trứng.

THAM KHẢO:

1. Mathieu KB, Bedi DG, Thrower SL, Qayyum A, Bast RC Jr. Screening for ovarian cancer: imaging challenges and opportunities for improvement. Ultrasound Obstet Gynecol. 2018 Mar;51(3):293-303

2. Otsuka I, Matsuura T. Screening and Prevention for High-Grade Serous Carcinoma of the Ovary Based on Carcinogenesis-Fallopian Tube- and Ovarian-Derived Tumors and Incessant Retrograde Bleeding. Diagnostics (Basel). 2020 Feb 22;10(2):120.

3. Sharma, A., Burnell, M., Gentry-Maharaj, A., Campbell, S., Amso, N.N., Seif, M.W., Fletcher, G., Brunel, C., Turner, G., Rangar, R., Ryan, A., Jacobs, I., Menon, U. and (2013), Factors affecting visualization of postmenopausal ovaries: descriptive study from the multicenter United Kingdom Collaborative Trial of Ovarian Cancer Screening (UKCTOCS). Ultrasound Obstet Gynecol, 42: 472-477.

Previous
Previous

Cử động mắt ở thai nhi

Next
Next

Quan điểm hiện tại của chẩn đoán siêu âm trước khi sinh và thách thức quản lý lâm sàng của nút thắt thực sự của dây rốn